Quy định pháp luật về vai trò của Chính phủ điện tử trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Từ những năm 2000, Việt Nam luôn quan tâm và coi trọng việc phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước, xác định đó là động lực góp phần vào công cuộc đổi mới, tạo khả năng đi tắt đón đầu để tiến tới thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế với quan điểm “phát triển công nghệ thông tin trên mọi lĩnh vực, song tập trung ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính và cung cấp dịch vụ công, trước hết là các lĩnh vực liên quan đến doanh nghiệp và người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp... ”. Nghị quyết đã xác định mục tiêu cụ thể đến năm 2020 là “thực hiện có hiệu quả chương trình cải cách hành chính, gắn chặt với xây dựng Chính phủ điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao, ở nhiều lĩnh vực”. Để cụ thể hóa chủ trương của Đảng, năm 2015, Chính phủ đã ban hành nghị quyết đầu tiên về Chính phủ điện tử nhằm “đẩy mạnh phát triển Chính phủ điện tử, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Nhà nước ngày càng phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Nâng vị thế Việt Nam về Chính phủ điện tử theo xếp hạng của Liên hợp quốc, công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan Nhà nước trên môi trường mạng”.

Bên cạnh nghị quyết của Đảng, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 thay thế Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005. Luật năm 2018 có nhiều quy định mới so với Luật năm 2005. Một trong những điểm mới là quy định về chống tham nhũng trong khu vực tư. Hơn nữa, Luật mới có nhiều quy định về phương pháp phòng, chống tham nhũng áp dụng công nghệ thông tin như xây dựng hệ thống chính quyền điện tử cho 4 cấp từ Chính phủ đến địa phương1. Luật An ninh mạng năm 2018 và BLHS năm 2015 cũng có nhiều quy định điều chỉnh việc sử dụng Chính phủ điện tử để giảm tình trạng tham nhũng.

Việt Nam không chỉ ban hành các luật, quy định trong nước về đấu tranh phòng, chống tham nhũng mà còn tham gia trở thành thành viên của Công ước quốc tế về chống tham nhũng - Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2004.

 

Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia đi vào vận hành sẽ thay đổi phương thức chỉ đạo, điều hành từ dựa trên thông tin, số liệu trên văn bản giấy sang dựa trên dữ liệu số. Ảnh: Nhật Bắc

Thực trạng ứng dụng Chính phủ điện tử ở Việt Nam

Về xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trên 90% người lao động được trang bị máy vi tính phục vụ công việc; 100% cơ quan Nhà nước có mạng nội bộ (LAN, Intranet, extranet). Trên phạm vi toàn quốc, hơn 85% cơ quan Nhà nước được kết nối với mạng truyền số liệu đặc biệt của Chính phủ; hình thành và xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia với 02 chương trình ứng dụng công nghệ thông tin quốc gia, một số cơ sở dữ liệu quốc gia bước đầu được xác định và hình thành. Tuy nhiên, việc triển khai các dự án còn chậm.

Về ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ người dân, doanh nghiệp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, 100% cơ quan Nhà nước có trang/cổng thông tin điện tử. Hàng năm, mỗi cơ quan cung cấp trung bình hàng nghìn tin, bài. Nhiều dịch vụ công trực tuyến đã được cung cấp trên cổng và tiếp tục được mở rộng. Tuy nhiên, mặc dù số lượng dịch vụ công trực tuyến ngày càng tăng nhưng hầu hết ở mức độ thấp (chỉ cho phép người dùng xem, tải mẫu tờ khai). Số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ cao được sử dụng hiệu quả còn hạn chế.2 Ứng dụng công nghệ thông tin trong một số lĩnh vực khác khá thành công như quản lý thuế, quản lý hải quan, quản lý dân cư...

Vai trò của Chính phủ điện tử trong phòng, chống tham nhũng

Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rõ ràng: Tham nhũng là một hiện tượng xã hội đang tồn tại ở Việt Nam; mức độ tham nhũng nghiêm trọng; phạm vi tham nhũng rộng, tính chất phức tạp của hành vi tham nhũng; hậu quả của tham nhũng là nguy hại về nhiều mặt, có thể dẫn đến nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vấn đề quan trọng là cần đánh giá một cách khách quan, thực chất tình hình tham nhũng ở Việt Nam hiện nay với các số liệu cụ thể để đưa ra các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Những dữ liệu này trước hết do các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng tập hợp, đặc biệt là các dữ liệu do các cơ quan chuyên môn tổng hợp. Các cơ quan này là Cục Phòng, chống tham nhũng thuộc Thanh tra Chính phủ; Cục Điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu thuộc Bộ Công an và Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham nhũng, chức vụ thuộc Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao.

Thời gian qua, các bộ ngành, địa phương Việt Nam đã có nhiều nỗ lực và đạt được những kết quả bước đầu quan trọng làm nền tảng cho sự phát triển Chính phủ điện tử. Hành lang pháp lý trong ứng dụng công nghệ thông tin và xây dựng Chính phủ điện tử từng bước được hoàn thiện. Các cơ sở dữ liệu có tính chất nền thông tin như cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai đang được xây dựng và đưa vào vận hành tất cả các thành phần. Các cơ quan Nhà nước đã cung cấp một số dịch vụ công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp và người dân như đăng ký doanh nghiệp, khai thuế, nộp thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội... Một số bộ đã xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng. Tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử đã được đưa vào vận hành, từng bước nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của dịch vụ công. Chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin của Việt Nam cũng được quan tâm.

Tuy nhiên, nhìn tổng quan có thể thấy, việc triển khai Chính phủ điện tử vẫn chưa đạt được như mong muốn của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Vị trí của Việt Nam trong Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc vẫn ở mức trung bình. Theo báo cáo mới nhất của Liên hợp quốc, trong 2 năm qua, chúng ta đã tăng 1 bậc, xếp thứ 88/193 quốc gia và vùng lãnh thổ được đánh giá. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam được xếp hạng khiêm tốn ở vị trí thứ 6. Kết quả triển khai nhiều nhiệm vụ về Chính phủ điện tử còn rất chậm, nhiều nơi còn mang tính hình thức. Việc xây dựng và triển khai cơ sở dữ liệu quốc gia, hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng phát triển Chính phủ điện tử còn rất chậm so với tiến độ yêu cầu; hệ thống thông tin dữ liệu còn mang tính cục bộ, chưa có kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ thống thông tin; chất lượng dữ liệu và thông tin chưa được cập nhật kịp thời và chính xác. Nhiều hệ thống thông tin được triển khai chưa đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, mức độ tin cậy quốc gia về giao dịch điện tử thấp. Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến còn chạy theo số lượng, trong khi tỷ lệ thực hiện dịch vụ công trực tuyến còn rất thấp; việc giải quyết thủ tục hành chính, giải quyết hồ sơ công việc còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ. Cơ chế đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vẫn còn những rào cản, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi triển khai dự án. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều lãnh đạo Chính phủ, bộ, ngành, địa phương không có đầy đủ thông tin về dữ liệu số của đối tượng.

Như vậy, để chấm dứt nạn tham nhũng, chúng ta phải thúc đẩy sự minh bạch, trách nhiệm giải trình và liêm chính ở mọi cấp và mọi thành phần của xã hội. Tiếp tục kế thừa và phát huy những kết quả đạt được, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong giai đoạn tiếp theo, khắc phục những hạn chế tồn tại, từng bước hiện thực hóa quyết tâm. Xây dựng Chính phủ kiến ​​tạo, phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ người dân và doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Trong giai đoạn tiếp theo, Việt Nam cần hoàn thiện nền tảng phát triển theo hướng kinh tế số và xã hội số, nâng cao năng lực, hiệu quả của tổ chức bộ máy Chính phủ. Đồng thời, phải đảm bảo an toàn, an ninh thông tin, an ninh mạng và tiếp tục nâng vị trí của Việt Nam trong xếp hạng Chính phủ điện tử của Liên hợp quốc cũng như góp phần tăng chỉ số cạnh tranh và chỉ số phát triển quốc gia.

Một số phương hướng, giải pháp nâng cao vai trò của Chính phủ điện tử trong phòng, chống tham nhũng

Một là, đẩy nhanh việc xây dựng và hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho việc xây dựng Chính phủ điện tử. Theo kinh nghiệm của các nước phát triển Chính phủ điện tử, nền tảng thể chế của Chính phủ điện tử phải đi trước, trong khi Việt Nam còn thiếu nhiều quy định, chính sách. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam phải ban hành các Nghị định về chia sẻ dữ liệu; về bảo vệ dữ liệu cá nhân; xác thực điện tử và bảo vệ quyền riêng tư; về chế độ thông tin báo cáo giữa các cơ quan hành chính Nhà nước... Trong giai đoạn tới, cần nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chính phủ điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành để bảo đảm hành lang pháp lý cho phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở và ứng dụng công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.

Hai là, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia cơ bản. Song song với việc xây dựng thể chế, cần tập trung hoàn thiện việc xây dựng các cơ sở dữ liệu cơ bản quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai... Để đảm bảo việc sử dụng có hiệu quả các cơ sở dữ liệu quốc gia này cần xây dựng nền tảng tích hợp dữ liệu và chia sẻ giữa hệ thống thông tin trung ương và địa phương; hệ thống liên thông gửi và nhận văn bản điện tử; hệ thống xác thực danh tính điện tử; liên kết giữa hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng của Chính phủ và chữ ký số công cộng; Cổng thanh toán quốc gia... để đảm bảo dữ liệu và thông tin không bị gián đoạn giữa các cấp chính quyền.

Ba là, thiết lập hệ thống dịch vụ công và quản lý của Chính phủ. Văn phòng Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương đang tích cực xây dựng Cổng Dịch vụ công quốc gia và triển khai hệ thống thông tin một cửa điện tử. Đây là hệ thống quan trọng để kết nối Chính phủ với người dân và doanh nghiệp, thể hiện tinh thần phục vụ của Chính phủ. Cổng dịch vụ công quốc gia cần hướng tới sự hiện diện số hóa thống nhất, đầy đủ và thân thiện của Chính phủ phục vụ người dân và doanh nghiệp. Để phục vụ công tác quản lý, điều hành của Chính phủ, trong giai đoạn tới, Việt Nam sẽ xây dựng hệ thống thông tin Chính phủ không giấy tờ; hệ thống điện tử tham vấn chính sách; hệ thống thông tin báo cáo quốc gia theo hướng xây dựng Trung tâm chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã được tập trung nghiên cứu xây dựng.

Bốn là, rà soát, sắp xếp lại và huy động mọi nguồn lực tài chính, nhân lực. Trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã có những đầu tư nhất định cho việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin. Tuy nhiên, các dự án đầu tư còn manh mún, chưa tạo chuyển biến căn bản để xây dựng Chính phủ điện tử. Thời gian tới, để nâng cao hiệu quả đầu tư, cần rà soát, sắp xếp lại, huy động các nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ ưu tiên phát triển Chính phủ điện tử, điều chỉnh cơ chế đầu tư đặc thù cho công nghệ thông tin, tăng cường xã hội hóa để đưa vào thực hiện đầy đủ hợp tác công - tư trong công tác này. Đồng thời, cần tổ chức đào tạo, giáo dục, khai thác, sử dụng hệ thống thông tin, sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 cho người dân, doanh nghiệp và nghiên cứu xây dựng cơ chế khuyến khích thu hút nhân tài tham gia xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử. Việt Nam cũng cần nâng cao hiệu quả truyền thông, nhận thức về Chính phủ điện tử, kinh tế số, hạ tầng số thông qua việc triển khai các chương trình truyền thông nâng cao nhận thức thay đổi thói quen hành vi, tạo sự đồng thuận của các bên về phát triển Chính phủ điện tử.

Năm là, phát huy vai trò của người đứng đầu, nâng cao hiệu quả thực thi và trách nhiệm giải trình. Thể hiện quyết tâm xây dựng Chính phủ điện tử, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thành lập Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử trên cơ sở hợp nhất Ủy ban Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin do Thủ tướng Chính phủ làm Chủ tịch Ủy ban. Các thành viên của Ủy ban là các bộ trưởng trực tiếp làm nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử để kết nối giữa các bộ, địa phương trong thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, Ủy ban có sự tham gia của đại diện khu vực tư nhân nhằm thúc đẩy hiệu quả hợp tác công - tư trong thực hiện nhiệm vụ này. Các nhiệm vụ triển khai Chính phủ điện tử sẽ được đánh giá gắn với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu từng bộ, địa phương và được đo lường thông qua bộ chỉ số đánh giá hiệu quả và đo lường chất lượng kết quả xây dựng. Phát triển Chính phủ điện tử đảm bảo tính chính xác và công bằng thông qua nhóm công tác của Ủy ban.

Như vậy, có thể khẳng định, xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và nền kinh tế số là chủ trương lớn cần được đẩy mạnh ở Việt Nam trong giai đoạn tới./.

Nguồn: Ths. Ngô Thu Trang

Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra​